Đề án Kết nối sản xuất, chế biến và tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030 vừa được UBND tỉnh phê duyệt với mục tiêu đến năm 2030, sản lượng sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh được tổ chức kết nối, tạo liên kết theo chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ đạt 50% sản lượng sản xuất; tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp chủ lực được truy xuất nguồn gốc đạt 80% trở lên...
Ảnh minh họa: Mô hình trồng dưa nhà lưới bảo đảm ATTP
Mục tiêu của đề án là phát triển kết nối sản xuất, chế biến, tiêu thụ để xây dựng vùng nguyên liệu hàng hóa chất lượng, quy mô lớn, có hệ thống kho bảo quản và nhà máy sơ chế, chế biến phù hợp với quy mô sản xuất; nâng cao thu nhập của người sản xuất trên đơn vị diện tích sản xuất thông qua việc gia tăng giá trị sản phẩm.
Đồng thời, nâng cao năng lực của các chủ thể sản xuất, chế biến và tiêu thụ để mở rộng khả năng kết nối, tạo liên kết bền vững giữa các chủ thể; phát triển mạnh năng lực kinh doanh các các cơ sở chế biến, làm hạt nhân cho các hoạt động kết nối; kết nối để hình thành và phát triển đa dạng các hình thức liên kết theo chuỗi bền vững, có ứng dụng thương mại điện tử và truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu, đảm bảo phù hợp với trình độ, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và yêu cầu của thị trường.
Cụ thể, đề án đề ra mục tiêu đến năm 2025, sản lượng sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh được tổ chức kết nối, tạo liên kết theo chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ đạt từ 20% sản lượng trở lên; kết nối tạo liên kết và hình thành chuỗi liên kết trong sản phẩm chủ lực đạt 2.000 chuỗi trở lên (trung bình tăng 6%/năm); tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp chủ lực được truy xuất nguồn gốc đạt 40% trở lên; được sơ chế, chế biến đạt từ 40% tổng sản lượng sản xuất trở lên; tỷ lệ cơ sở chế biến được nâng cấp, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị và áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, hệ thống quản lý chất lượng (ISO, HACCP, FSSC,...) đạt từ 20% cơ sở hiện có trở lên.
Đến năm 2030, sản lượng sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh được tổ chức kết nối, tạo liên kết theo chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ đạt 50% sản lượng sản xuất; kết nối, tạo liên kết và hình thành chuỗi liên kết trong sản phẩm chủ lực đạt 3.000 chuỗi trở lên (trung bình tăng 8,5%/năm); tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp chủ lực được truy xuất nguồn gốc đạt 80% trở lên; được chế biến đạt từ 55% tổng sản lượng sản xuất trở lên; tỷ lệ cơ sở chế biến được nâng cấp, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị và áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, hệ thống quản lý chất lượng (ISO, HACCP, FSSC,...) đạt trên 40% cơ sở hiện có trở lên.
Theo đó, đề án đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể trong việc tổ chức xây dựng vùng nguyên liệu; phát triển, mở rộng quy mô các hình thức tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết; phát triển công nghiệp chế biến; phát triển các cụm liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ; phát triển thương hiệu sản phẩm, hàng hóa trong tỉnh; phát triển thị trường tiêu thụ; phát triển dịch vụ logistics và công nghiệp phụ trợ phục vụ sản xuất và tiêu thụ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ số; phát triển nguồn nhân lực; huy động nguồn vốn và các giải pháp về cơ chế, chính sách.
Dự kiến nhu cầu vốn thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm tại Đề án khoảng 2.555,5 tỷ đồng; trong đó, nguồn vốn ngân sách nhà nước khoảng 53,775 tỷ đồng, nguồn vốn khác (vốn doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, của Nhân dân, nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ,...) khoảng 2.501,725 tỷ đồng.